Tuesday, September 12, 2017

VAT và cơ hội cho chính phủ Nguyễn Xuân Phúc

Lê Anh Hùng | VOA| 12.9.2017


Tăng thuế và lý lẽ của “dân chi phụ mẫu”
Tại cuộc họp báo chiều 15/8, Bộ Tài chính đã đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) theo hai phương án: (i) tăng từ 10% lên 12% kể từ ngày 1/1/2019; và (ii) tăng theo lộ trình, lên 12% từ ngày 1/1/2019 và 14% từ ngày 1/1/2021.
Lý do để Bộ Tài chính đưa ra đề xuất này là mức thuế VAT 10% hiện tại tương đối thấp, không phù hợp với thông lệ quốc tế, khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. 
Theo lập luận của Bộ Tài chính thì số lượng quốc gia áp dụng thuế VAT ngày càng tăng, từ khoảng 140 nước năm 2004 lên 160 nước năm 2014, và 166 nước năm 2016. Song song với điều đó, xu thế tăng thuế suất VAT cũng diễn ra phổ biến. Từ năm 2009-2016, các nước đều tăng thuế suất phổ thông. Cụ thể thuế suất VAT trung bình tại EU năm 2000 là 19%, đến năm 2014 lên mức xấp xỉ 21,5%. Các nước OECD cũng có xu hướng tăng thuế suất VAT từ mức bình quân 18% năm 2000, lên khoảng 19% năm 2014, và hơn 19% vào năm 2016.

Và sự thật đằng sau
Mặc dù Bộ Tài chính không nói thẳng ra, nhưng ai cũng hiểu, nguyên nhân bức bách nhất khiến cơ quan chủ quản ngân khố quốc gia phải đề xuất tăng thuế chính là tình trạng thâm thủng ngân sách, thu không đủ bù chi, vốn đã kéo dài nhiều năm nay, trong bối cảnh nợ công đã lên đến mức báo động (theo một chuyên gia của Liên Hợp Quốc là 210% GDP tính đến hết năm 2016) và vẫn đang trên đà gia tăng.
Bất chấp việc một số quan chức trong bộ máy lên tiếng trấn an dư luận, cho rằng người nghèo không bị ảnh hưởng nhiều, hoặc thậm chí là không bị ảnh hưởng bởi việc tăng thuế, đề xuất tăng thuế VAT của Bộ Tài chính vẫn vấp phải phản ứng gay gắt của dư luận, cả trên truyền thông “lề đảng” lẫn “lề dân”. Đơn giản, những lời giải thích của các quan chức kia hoặc là thiếu hiểu biết, hoặc là nguỵ biện. VAT là một loại thuế gián thu, không phân biệt người giàu hay người nghèo, nam phụ hay lão ấu, thế nên tất cả mọi người, bất kể giàu nghèo, đều bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với mức thu nhập thấp hơn, người nghèo chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng hơn người giàu.
Ngoài ra, mức thuế suất VAT bình quân trên thế giới dao động với biên độ rất lớn, từ 0% (khoảng 27 nước không áp đặt thuế VAT) đến mức 5% như ở Đài Loan, Kuwait cho đến mức 25% (thậm chí 27%) như tại nhiều nước EU. Vì vậy có thể nói, cái gọi là “thông lệ quốc tế” về thuế suất VAT như lập luận của Bộ Tài chính đơn giản là không tồn tại. Bên cạnh đó, so với các nước trong khu vực (Đài Loan và Nhật Bản 5%; Thái Lan và Singapore 7%; Campuchia, Indonesia, Malaysia, Lào và Hàn Quốc 10%; Philippines 12%; Ấn Độ 12,5%; Trung Quốc 17%), thuế suất VAT 10% hiện nay của Việt Nam cũng nằm ở mức trung bình, chứ không hề thấp.
Đặc biệt, theo PGS.TS Trần Đình Thiên thì thu từ thuế và phí (không kể thu từ dầu thô) của Việt Nam hiện đang ở mức rất cao so với các nước trong khu vực. Cụ thể, trung bình trong giai đoạn 2007-2012, tỷ lệ này ở Việt Nam là 21,6% GDP, Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malaysia là 15,5%, Indonesia là 12,1% còn Ấn Độ chỉ là 7,8%. “Như vậy, những chính sách bảo hộ và thuế chồng lên thuế đang khiến mỗi người dân Việt Nam gánh chịu tỷ lệ thuế phí/GDP cao gấp từ 1,4 đến 3 lần so với các nước khác trong khu vực”, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết.
Tóm lại, những lời giải thích của các quan chức Bộ Tài chính đều là lấp liếm, nguỵ biện, không che dấu được bản chất của việc tăng thuế suất VAT lần này là tiếp tục bòn rút sức dân, những “ông/bà chủ” vốn đã còm cõi vì phải gánh chịu đủ loại thuế phí trên trời dưới đất. Với việc thuế suất VAT tăng lên 12%, gánh nặng thuế phí/GDP lại càng đè nặng lên đôi vai họ.
Cơ hội cho chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
Tiếng nói của người dân ngày càng có ảnh hưởng đến công tác hoạch định chính sách của chính phủ. Đó là thực tế không cần phải bàn cãi. Lý do là vì dân chúng Việt Nam ngày càng bạo dạn hơn trong việc bày tỏ chính kiến, đặc biệt là những gì liên quan đến chuyện cơm áo gạo tiền hàng ngày, mà vụ BOT Cai Lậy vừa rồi là một minh chứng nóng hổi. Ngoài ra, bản thân chính phủ Việt Nam cũng đã phải trả nhiều học phí đắt giá khi bất chấp phản ứng của công luận, mà vụ Bauxite Tây Nguyên là một ví dụ điển hình.
Trước làn sóng phản ứng mạnh mẽ của dư luận, trong cuộc họp chính phủ thường kỳ tháng 8/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo: “Với tinh thần năm 2017 là năm giảm chi phí cho doanh nghiệp, trước mắt, chưa đề cập việc tăng các loại thuế, phí, lệ phí, ảnh hưởng đến doanh nghiệp.”
Chỉ đạo của người đứng đầu chính phủ, có thể nói, phần nào đã cho thấy sự lắng nghe phản ứng của dư luận, trước khi “chuyển hoá” thành chỉ đạo điều hành. Tuy nhiên, nếu tất cả chỉ dừng lại ở chừng đó không thôi thì chưa rõ ràng và chưa đủ.
Chưa rõ ràng là vì việc tăng thuế suất VAT trước hết ảnh hưởng đến người dân. VAT là thuế gián thu, đánh vào người tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ đơn giản là thu hộ cho nhà nước. VAT làm cho giá hàng hoá tăng lên, khiến sức mua của người tiêu dùng giảm đi, nhưng với những mặt hàng thiết yếu thì mức suy giảm gần như bằng không. Trong khi đó, chỉ đạo của Thủ tướng Phúc lại mới chỉ quan tâm đến doanh nghiệp, mà cũng không chỉ đích danh loại thuế đang khiến dư luận bất bình là VAT.
Chưa đủ là vì “chưa đề cập đến việc tăng các loại thuế, phí, lệ phí” mới chỉ là một giải pháp tình thế trước áp lực của dư luận, mà chưa kèm theo những giải pháp căn cơ, rốt ráo nhằm giáp bớt áp lực ngân sách đang ngày một đè nặng lên hệ thống và quan trọng hơn là quyết tâm chính trị để hiện thực hoá chúng.
Theo TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright: “Với thuế suất VAT phổ thông hiện nay là 10%, thì nguồn thu từ thuế VAT đã chiếm tới 27,5% tổng thu ngân sách của Việt Nam. Trong khi đó, với mức thuế suất trung bình cao hơn hẳn là 21,3%, VAT cũng mới chiếm trung bình 21,4% tổng thu ngân sách của các nước EU.”  Khi thuế suất VAT tăng lên thì một mặt sức mua của người dân sẽ giảm; mặt khác, tình trạng trốn lậu thuế lại càng diễn ra phổ biến. Cả hai yếu tố đều ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách. Nghĩa là, việc tăng thuế suất VAT không đồng nghĩa với việc vai trò của sắc thuế này trong tổng thu ngân sách sẽ được cải thiện tương ứng.
Vì thế, để giải quyết một cách căn cơ tình trạng thâm thủng ngân sách và nợ công ngất ngưởng trong bối cảnh dư luận phản ứng gay gắt trước đề xuất tăng thuế suất VAT hiện nay, chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cần nhân cơ hội thúc đẩy mạnh mẽ nghị trình cải cách kinh tế, mà trọng tâm và gai góc nhất là việc tinh gọn và lành mạnh hoá khu vực kinh tế nhà nước: (i) cổ phần hoá/tư nhân hoá DNNN: nhằm giải phóng nguồn lực trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực nắm giữ phần lớn nguồn lực quốc gia nhất nhưng hiệu quả lại thấp nhất; (ii) thị trường hoá/phi điều tiết hoá, đặc biệt là những lĩnh vực còn bị can thiệp nặng nề như điện lực, xăng dầu, v.v… và dịch vụ sự nghiệp công; (iii) tinh gọn bộ máy, cắt giảm biên chế; và (iv) cải cách đầu tư công (minh bạch, kiểm soát và thắt chặt đầu tư công; thực hiện nguyên tắc ngân sách cứng, chấm dứt hiện tượng “đội vốn”; đảm bảo nguyên tắc độc lập giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp thực hiện đầu tư).

  • Lê Anh Hùng
  • Lê Anh Hùng là một blogger/dịch giả/nhà báo độc lập ở Hà Nội và là người đấu tranh vì tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam từ nhiều năm nay.

Nguồn: VOA

17 comments:

  1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    ReplyDelete
  2. Việc tăng hay giảm thuế VAT đều sẽ được thảo luận lấy ý kiến công khai minh bạch, để phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như sự phát triển sản xuất kinh doanh của người dân. Không có gì là có lợi cho Chính phủ cả. Tác giả đừng nên xuyên tạc, bóp méo sự thật ở đây.Chúng ta hãy tin vào sự quyết định đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam!

    ReplyDelete
    Replies
    1. ăn cơm rau muống mà đòi bàn chuyện quốc gia. Lấy ví dụ minh họa thì toàn số liệu láo toét. Việc cân bằng tài chính quốc gia là việc lớn đảm bảo lợi ích người dân ko cần đến kẻ xuyên tạc

      Delete
  3. Khi người dân được giảm thuế thu nhập, họ đã chi tiêu nhiều hơn hẳn. Thuế VAT là phần tiền thu từ giá trị gia tăng của mỗi giao dịch mua bán, từ đó cũng sẽ tăng lên nếu người dân mua bán nhiều hơn. Nhìn tổng thể, nguồn thu thuế của Nhà nước đã trở nên dồi dào hơn chính nhờ tăng thuế VAT

    ReplyDelete
    Replies
    1. số lượng quốc gia áp dụng thuế VAT ngày càng tăng, từ khoảng 140 nước năm 2004 lên 160 nước năm 2014, và 166 nước năm 2016. Song song với điều đó, xu thế tăng thuế suất VAT cũng diễn ra phổ biến.

      Delete
    2. Đóng thuế là quyền lợi vầ trách nhiệm của công dân. Thuế được đóng đã được Bộ Tài chính tính toán góp phần tăng nguồn thu phục vụ phát triển đất nước

      Delete
  4. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    ReplyDelete
  5. ở nước ta, nhiều khi thuế thu nhập đã không phản ánh đúng điều trên. Ví dụ, một người đóng thuế trên mức lương chính thức công ty trả là 5 triệu đồng, tuy nhiên tổng thu nhập người đó có từ các nguồn không chính thức khác lên đến 50 triệu đồng, vậy thì thu thuế thu nhập như thế nào?
    Trong tình huống này, rõ ràng đánh thuế trên các giao dịch mua bán, như thuế VAT, sẽ là lựa chọn tốt hơn. Người có thu nhập cao sẽ mua sắm nhiều hơn, kéo theo tiền thuế phải đóng nhiều hơn và vấn đề thất thu thuế sẽ được giảm bớt.

    ReplyDelete
  6. tăng thuế VAT sẽ không mâu thuẫn với mục tiêu của một Chính phủ kiến tạo. Ngược lại, điều này còn có thể xác lập một dấu mốc rằng chúng ta đã tiếp nhận sâu hơn với các tư duy về thuế trên thế giới và bắt đầu sử dụng thuế như một công cụ hiệu quả hơn để điều hành nền kinh tế

    ReplyDelete
    Replies
    1. việc tăng thuế suất thuế GTGT thêm 2% có tác động không lớn đến chi tiêu của nhóm NTNT. Tuy nhiên, với những nhóm NTNT dễ bị tổn thương thì cần có những giải pháp hỗ trợ về an sinh, xã hội như: giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng...

      Delete
  7. Ở một nước mới phát triển ở mức thấp như Việt Nam thì công cụ thuế vẫn chưa được sử dụng hiệu quả, mức thuế giá trị gia tăng vẫn còn thấp. Trong khi đó nhiều nước có hệ thống thuế linh hoạt, hiệu quả hơn. Nhiều nước ở châu Âu có thuế suất VAT lên đến 21%

    ReplyDelete
  8. nhóm NTNT nhất thì dành tới 59,6% thu nhập để chi mua lương thực, thực phẩm, y tế, giáo dục. Nhóm thu nhập cao nhất chỉ dành 39,6% tổng thu nhập để chi cho các hàng hóa, dịch vụ trên. Các hàng hóa, dịch vụ này đều thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, nên việc điều chỉnh tăng thuế suất thuế GTGT sẽ không ảnh hưởng đến chi tiêu của nhóm hàng hóa, dịch vụ này.

    ReplyDelete
  9. thuế GTGT hiệu quả hơn về khía cạnh phục vụ phát triển kinh tế so thuế thu nhập đánh vào lao động và vốn. Thuế GTGT có ít tác động bóp méo đến các quyết định kinh tế của hộ và doanh nghiệp hơn sắc thuế đánh vào lao động và vốn

    ReplyDelete
  10. Thuế GTGT cũng góp phần hỗ trợ tăng tính cạnh tranh quốc tế. Đây là thuế đánh vào tiêu dùng trong nước, bao gồm cả hàng hóa dịch vụ nhập khẩu trong khi hàng hóa dịch vụ xuất khẩu không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Việt Nam vẫn còn tiềm năng mở rộng việc áp dụng thuế GTGT.

    ReplyDelete
  11. iện nay, có những lo ngại chính đáng về tác động tới phân bổ thu nhập của thuế GTGT, đặc biệt là đến người nghèo. Tuy nhiên, vấn đề này có thể được giải quyết và kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc giữ thuế suất thuế GTGT ở mức thấp không phải là cách tốt nhất để giải quyết cân bằng tài khóa và bảo đảm công bằng.

    ReplyDelete
  12. Bất kỳ cuộc tranh luận nào về tác động tới phân bổ thu nhập của việc tăng thuế GTGT cũng cần được đánh giá trong bối cảnh toàn bộ hệ thống thuế và hệ thống phúc lợi, chứ không chỉ một sắc thuế riêng lẻ. Vì vậy, nếu xem xét đề xuất tăng thuế GTGT trong bối cảnh rộng hơn thì có thể giải quyết được mối lo ngại về tác động tới phân bổ thu nhập của việc tăng thuế GTGT.

    ReplyDelete
  13. Tăng thuế là phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Đất nước muốn có hạ tâng để phát triển chúng ta cần một ngân sách lớn cho phát triển

    ReplyDelete